Chính sách mới - Cơ hội để doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ "lớn lên"

Đăng ngày: 15/11/2025 , 10:58 GMT+7

Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, đặt ra mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam có 2 triệu doanh nghiệp, trong đó ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Đây là đòn bẩy chính sách quan trọng giúp các doanh nghiệp tư nhân trong đó có các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) khẳng định vai trò, mở rộng sản xuất, tăng cường liên kết và tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Ngành CNHT phát triển nhưng vẫn dưới tiềm năng

Nhờ có những chính sách thúc đẩy hỗ trợ, những năm gần đây, ngành CNHT đã đạt được những kết quả nhất định. Theo đó, số lượng doanh nghiệp CNHT Việt Nam đã gia tăng, đặc biệt trong chuỗi cung ứng cho các ngành sản xuất chủ lực như dệt may, da giày, điện tử và công nghiệp chế biến nông sản.  

Theo Hiệp hội CNHT Việt Nam (VASI),hiện cả nước có khoảng 2.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT, trong đó hơn 300 doanh nghiệp đang tham gia vào chuỗi cung ứng đa quốc gia. Sự gia tăng này phản ánh xu hướng phát triển mạnh mẽ của ngành CNHT nhờ vào những lợi thế từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết với các cường quốc lớn như Mỹ, EU và Nhật Bản. Việc tham gia vào các FTA tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp CNHT của Việt Nam tìm kiếm khách hàng, kết nối thị trường, mở rộng hợp tác. Chính sách ổn định, sự điều chỉnh hợp lý của nhà nước và các tập đoàn quốc tế đang tìm kiếm đối tác tại Việt Nam là yếu tố then chốt để các doanh nghiệp trong ngành có thể phát triển và mở rộng thị phần. Tuy nhiên, ngành CNHT của Việt Nam vẫn đang bị đánh giá là một trong những lĩnh vực phát triển dưới tiềm năng. 

Mặc dù số lượng doanh nghiệp gia tăng nhưng số lượng sản phẩm CNHT vẫn không đáp ứng được yêu cầu của chuỗi cung ứng. Ngoài một số doanh nghiệp lớn như Viettel, Vingroup, Hòa Phát... đã có những bước phát triển mạnh mẽ, trở thành “đầu tàu” dẫn dắt trong lĩnh vực công nghiệp cơ bản, vật liệu, cơ khí và chế tạo... thì đa phần các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hoạt động tại địa phương.

Trong bối cảnh doanh nghiệp CNHT trong nước đang hoạt động với nhiều thách thức khi vừa phải cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp nước ngoài ngay tại sân nhà và gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn lực đầu tư của nhà nước từ trung ương đến địa phương. Mặc dù đã có những chính sách ưu đãi, quan tâm của Nhà nước nhưng trên thực tế các doanh nghiệp CNHT Việt Nam chưa tiếp cận được các chính sách này. Để được hưởng ưu đãi theo quy định doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện ngặt nghèo, khó đáp ứng tiêu chuẩn để được hưởng chính sách khiến cho các doanh nghiệp khó tiếp cận. Cái khó của các doanh nghiệp CNHT Việt Nam là quy mô nhỏ, dây chuyền sản xuất đơn giản, khả năng tài chính hạn chế, thiếu tài sản bảo đảm nên không có các khoản vay lớn để đầu tư phát triển mở rộng sản xuất trong khi đặc thù của ngành này là cần sự đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại với nguồn vốn lớn. Các chính sách thúc đẩy CNHT phát triển của nhà nước chưa đủ mạnh và chưa đồng bộ để tạo ra bước đột phá cho doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, tỷ lệ nội địa hóa một số sản phẩm CNHT phục vụ thị trường trong nước vẫn còn thấp. Các ngành công nghiệp chế tạo của Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào nguyên phụ liệu và linh kiện nhập khẩu, đặc biệt là các ngành công nghiệp chủ lực, như điện tử, máy tính, linh kiện, dệt may, da giày, lắp ráp ô tô... Sản phẩm linh phụ kiện do Việt Nam sản xuất thường chỉ là chi tiết đơn giản, hàm lượng công nghệ trung bình hoặc thấp, giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị sản phẩm. Sản phẩm CNHT có hàm lượng công nghệ cao chủ yếu do doanh nghiệp FDI cung cấp. Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực có trình độ trong ngành CNHT còn hạn chế, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tuyển dụng lao động đáp ứng yêu cầu.

Nghị quyết 68-NQ/TW - Luồng gió mới cho ngành CNHT

Trong bối cảnh các doanh nghiệp CNHT đang phải vừa củng cố, nâng cao năng lực hoạt động vừa nỗ lực tìm hướng tiếp cận với chuỗi cung ứng thì việc Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân ra đời giống như một luồng gió mới, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát huy lợi thế, mạnh dạn đầu tư đổi mới, sáng tạo, đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi số để nắm bắt tốt các cơ hội, từ đó nâng cao năng lực quản trị, năng lực cạnh tranh, tiến tới mở rộng quy mô sản xuất, tăng cường liên kết để tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Nghị quyết 68-NQ/TW đã xác định: kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, đóng vai trò tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Nghị quyết khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân mạnh dạn đầu tư vào nghiên cứu, phát triển công nghệ mới, tăng cường năng lực sản xuất, quản lý và cạnh tranh toàn cầu. Điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp CNHT nâng cấp trình độ công nghệ và tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt trong các ngành như ô tô, điện tử, cơ khí chính xác...

Do phần lớn các doanh nghiệp trong ngành có quy mô nhỏ và vừa nên Nghị quyết 68-NQ/TW ra đời đã giúp các doanh nghiệp CNHT được hoạt động trong môi trường kinh doanh cải thiện, được tiếp cận các nguồn lực giúp doanh nghiệp nâng cao vị thế và dễ dàng gia nhập vào thị trường. Nghị quyết đề ra mục tiêu: đến năm 2025 hoàn thành việc rà soát, loại bỏ những điều kiện kinh doanh không cần thiết, cắt giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính và chi phí tuân thủ. Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp CNHT giảm rào cản pháp lý, dễ dàng tiếp cận nguồn vốn, mặt bằng và thị trường.

Từ ánh sáng của Nghị quyết, các chính sách tín dụng đối với khu vực kinh tế tư nhân sẽ được ban hành, làm mới, là cơ hội tốt để các doanh nghiệp CNHT vừa tiếp cận tốt nguồn vốn vừa mở rộng quy mô sản xuất, mạnh dạn đầu tư vào máy móc, công nghệ hiện đại, đồng thời thúc đẩy nghiên cứu phát triển các sản phẩm kỹ thuật cao, từ đó tăng khả năng đáp ứng và tham gia vào chuỗi cung ứng nội địa, toàn cầu. Các doanh nghiệp cũng có nhiều cơ hội để tham gia vào các chương trình đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tự động hóa bằng cách tham gia vào các gói hỗ trợ của nhà nước, từ đó cải tiến năng lực quản trị và tăng năng suất lao động.

Nghị quyết 68-NQ/TW đặt mục tiêu: đến năm 2030 có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này tạo động lực cho các doanh nghiệp CNHT phát triển quy mô, nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường. Thông qua chính sách khuyến khích liên kết cụm, ngành, kết nối với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp CNHT có quy mô nhỏ có cơ hội trở thành nhà cung ứng vệ tinh cho các tập đoàn lớn như Samsung, VinFast, Toyota…

Theo Thông báo số 611/TB-VPCP ngày 11/11/2025 kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo tại Phiên họp lần thứ hai Ban Chỉ đạo quốc gia triển khai Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị, sau gần 6 tháng triển khai thực hiện, kết quả bước đầu khá tích cực. Các bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành xây dựng kế hoạch hành động cụ thể hóa các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 138/NQ-CP và số 139/NQ-CP; đã chủ động, quyết liệt triển khai các nhiệm vụ. Công tác thể chế hóa chính sách đạt hơn 67%, nhiều nhiệm vụ có thời hạn trong năm 2026 đã hoàn thành trong 2025. Số lượng doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường tăng trưởng mạnh mẽ, số hộ kinh doanh chuyển lên doanh nghiệp có thay đổi đáng kể. Cộng đồng doanh nghiệp và các tổ chức hội, hiệp hội tích cực hưởng ứng, kiến nghị nhiều chính sách cụ thể nhằm cụ thể hóa Nghị quyết số 68-NQ/TW.

Nghị quyết 68-NQ/TW ra đời góp phần tăng khả năng liên kết giữa các doanh nghiệp CNHT với nhau và tăng kết nối với Chính phủ trên cơ sở phát triển các kênh liên lạc thường xuyên để trao đổi thông tin, kịp thời giải quyết khó khăn. Đây là con đường thực tế và hiệu quả nhất để doanh nghiệp nhỏ từng bước “lớn lên”, ngày càng phát triển vững mạnh và khẳng định vai trò quan trọng của ngành CNHT trong sự phát triển ngành công nghiệp nước nhà và tiến trình nghiệp công nghiệp hóa đất nước.

Định hướng đã có, cánh cửa đã được mở, tuy nhiên, để tận dụng được các cơ hội khi Nghị quyết 68-NQ/TW đi vào đời sống, các doanh nghiệp ngành CNHT cần chủ động đổi mới, nâng cao năng lực quản trị và công nghệ cũng như tích cực tham gia vào các chương trình hỗ trợ của Nhà nước, chủ động liên kết để học hỏi và mở rộng mô hình thành công, từ đó phát triển nhanh, mạnh, bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh trong khu vực và quốc tế, góp phần vào việc thực hiện mục tiêu của Nghị quyết: đến năm 2045 có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, đóng góp khoảng trên 60% GDP của cả nước./.

Đào Hoàn

Đăng ngày: 15/11/2025 , 10:58 GMT+7

Tin liên quan

Tin Khác