Hội nhập “mở cửa” cho chuỗi cung ứng
Theo Bộ Công Thương, đến nay mạng lưới FTA của Việt Nam đã lên tới 19, nhiều FTA trong số đó là những hiệp định thế hệ mới, tiêu chuẩn cao như CPTPP, EVFTA, RCEP… đưa Việt Nam trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Đặc biệt, việc khai thác có hiệu quả các FTA đang tạo ra nhiều lợi thế cho doanh nghiệp Việt Nam trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và tiếp cận các nguồn nguyên liệu, công nghệ tiên tiến. Riêng năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 786 tỷ USD, tăng 15,08% so với năm 2023, xuất khẩu vượt 405 tỷ USD, cao gấp 2,5 lần kế hoạch Chính phủ giao.

Công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam dù đã có những bước tiến tích cực, song vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đạt được mục tiêu đề ra và chưa đáp ứng đủ nhu cầu linh kiện cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Đáng chú ý, trong cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu từ đầu năm đến nay, nhóm hàng công nghiệp chế biến đạt 194,28 tỷ USD, chiếm 88,4%. Tuy vậy, công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam dù đã có những bước tiến tích cực, song vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đạt được mục tiêu đề ra và chưa đáp ứng đủ nhu cầu linh kiện cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, doanh nghiệp trong nước chiếm đến 2/3 số cơ sở sản xuất và sử dụng 60% lực lượng lao động, nhưng chỉ nắm chừ chưa đầy 10% tổng vốn đầu tư. Tỷ lệ nội địa hóa vẫn còn thấp, phụ thuộc lớn vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Trong khi đó, nhu cầu linh kiện của doanh nghiệp FDI đang rất lớn và tăng nhanh. Điển hình như ngành ô tô, dù đã đạt được tỷ lệ nội địa hóa cao trên xe máy (60-70%, thậm chí 90%) nhưng trên ô tô vẫn còn thấp (khoảng 10-15%). Điều này đặt ra bài toán về nâng cao năng lực nội sinh của doanh nghiệp nội và để nhanh chóng nổi kết vào chuỗi công nghiệp hỗ trợ toàn cầu.
Theo nhận định của các chuyên gia, bối cảnh hiện hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng đang mở rộng cơ hội để Việt Nam tái cấu trúc chuỗi cung ứng, mở rộng thị trường thông qua các hiệp định thương mại tự do (FTA) và thương mại điện tử xuyên biên giới. Đồng thời, Việt Nam đang đứng trước một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển, trong bối cảnh toàn cầu hóa chững lại, biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt và chuyển đổi số lan rộng sâu sắc. Vì vậy, việc nhanh chóng tháo gỡ các điểm nghẽn để tạo đòn bẩy cho ngành công nghiệp hỗ trợ tăng tốc phát triển hết sức quan trọng.
Thúc đẩy hiện đại hóa sản xuất theo xu hướng
Theo ông Nguyễn Cảnh Cường - nguyên tham tán công sứ Việt Nam tại Bỉ và EU, để phát triển nhanh và bền vững, Việt Nam phải xác định rõ những trụ cột chiến lược, trong đó trọng tâm là công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp xanh và chuyển đổi số. Chuyển đổi từ mô hình sản xuất dựa vào lao động giá rẻ sang sản xuất dựa vào công nghệ và sáng tạo đang trở thành hướng đi tất yếu. Việt Nam cần đầu tư nhiều hơn cho nghiên cứu và phát triển (R&D),khuyến khích kết nối giữa doanh nghiệp với viện nghiên cứu, trường đại học để tăng nội lực đổi mới sáng tạo.
Ngoài ra, các lĩnh vực công nghiệp mũi nhọn như: Chíp bán dẫn, robot, xe điện, vật liệu mới, AI cần được ưu tiên với các gói hỗ trợ tài chính, thuế, hạ tầng để tạo cơ hội cạnh tranh công bằng giữa doanh nghiệp trong nước và FDI. Bên cạnh đó, song hành với đổi mới sáng tạo là phát triển công nghiệp xanh và kinh tế tuần hoàn. Với cam kết Net Zero vào 2050, Việt Nam cần đầy nhanh điện khí hoá giao thông, tiêu dùng bền vững, nâng cao chất lượng đô thị và nâng cấp hạ tầng hỗ trợ kinh tế tuần hoàn.
Về chuyển đổi số, đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu kinh tế số đóng góp 30% GDP. Điều này yêu cầu sự tích hợp sâu AI, Big Data, IoT vào sản xuất, kinh doanh và dịch vụ công. Bên cạnh đó, cần phát triển hạ tầng số quốc gia và nâng cao kỹ năng số cho lao động. Cuối cùng, yếu tố then chốt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Việt Nam cần khai thác hiệu quả lợi thế dân số vàng, đầu tư vào giáo dục nghề, kỹ năng kỹ thuật và tăng cường kỹ năng quản trị hiện đại.
Bà Đỗ Thuý Hương – Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam cũng nêu ý kiến rằng, các doanh nghiệp cần đa dạng thị trường xuất khẩu, tận dụng các FTA mà Việt Nam đã ký với gần 70 nền kinh tế nhằm đa dạng thị trường, trong đó cần nghiên cứu các thị trường tiềm năng như Ấn Độ, Trung Đông hoặc châu Phi. Bên cạnh đó, tăng cường đầu tư vào nghiên cứu thị trường và xây dựng thương hiệu tại các thị trường mới. Và, giải pháp quan trọng nữa là các doanh nghiệp cũng cần tái cơ cấu sản xuất và nâng cao giá trị gia tăng.
Đặc biệt, theo bà Đỗ Thuý Hương, ngành công nghiệp cần đầu tư vào công nghệ và sản phẩm xanh, chuyển đổi sản xuất theo hướng bền vững như sử dụng năng lượng tái tạo, vật liệu thân thiện môi trường để đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe của các thị trường phát triển. Điều này cũng sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm công nghiệp nếu thêm rào cản phi thuế quan. Mặt khác, cần tuân thủ chặt chẽ quy định xuất xứ, tăng cường bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo đảm sản phẩm không vi phạm bản quyền hoặc bằng sáng chế…
Thu Trang