TS. Cấn Văn Lực: Công nghiệp hỗ trợ - Mắt xích quyết định năng lực nội địa hóa và xuất khẩu bền vững

Đăng ngày: 28/08/2025 , 10:53 GMT+7

Mặc dù đạt nhiều thành tựu trong công nghiệp hóa và hội nhập, Việt Nam vẫn phụ thuộc lớn vào khu vực FDI, tỷ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng trong xuất khẩu còn thấp.

Để hiểu rõ hơn, phóng viên Tạp chí Doanh nghiệp và Thương mại đã có cuộc trao đổi với TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, xung quanh vấn đề này.

PV:Vì sao Việt Nam lại chậm nhận diện và phát triển “công nghiệp chiến lược”, “công nghiệp hỗ trợ” so với các nước trong khu vực? Theo ông, đâu là nguyên nhân gốc rễ và bài học sâu sắc nhất mà chúng ta cần rút ra?

TS. Cấn Văn Lực: Khái niệm công nghiệp chiến lược và công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam xuất hiện tương đối muộn so với nhiều quốc gia trong khu vực. Nguyên nhân sâu xa trước hết đến từ mô hình phát triển kinh tế trong giai đoạn đầu đổi mới, khi Việt Nam lựa chọn hướng đi dựa nhiều vào gia công, lắp ráp cho xuất khẩu. Lợi thế khi đó là chi phí lao động ở mức trung bình thấp, chính trị ổn định, vị trí địa lý thuận lợi, từ đó thu hút mạnh dòng vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, việc hội nhập ban đầu còn chậm và thiếu chọn lọc, khiến doanh nghiệp trong nước chủ yếu tham gia khâu giản đơn, giá trị gia tăng thấp. Trong khi đó, khối doanh nghiệp FDI chiếm vai trò chủ đạo trong các ngành sản xuất chiến lược như điện tử, cơ khí chế tạo, dệt may, da giày… và dẫn dắt chuỗi cung ứng. Điều này làm chậm quá trình hình thành nhận thức và chính sách về công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chiến lược, bởi nền tảng sản xuất nội địa chưa đủ mạnh, sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế.

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia

Từ thực tiễn này, Việt Nam đã rút ra nhiều bài học. Đó là, không thể chỉ dựa vào FDI, mà cần đồng thời phát triển doanh nghiệp trong nước để tạo thế cân bằng. Chính phủ đã từng bước ban hành hệ thống chính sách, từ Quyết định 12/2011/QĐ-TTg đến Nghị định 111/2015/NĐ-CP và mới đây là Nghị định 205/2025/NĐ-CP, nhằm xây dựng hành lang pháp lý đồng bộ, thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ. Nhờ đó, số lượng doanh nghiệp trong lĩnh vực này ngày càng gia tăng, một bộ phận đã tham gia trực tiếp chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt trong các ngành điện tử, ô tô, cơ khí chế tạo và nông sản chế biến. Một số tập đoàn lớn trong nước như Viettel, Vingroup, Hòa Phát, Vinamilk… đã vươn lên giữ vai trò dẫn dắt, góp phần giúp Việt Nam tiến sâu hơn vào chuỗi giá trị sản xuất, dịch vụ toàn cầu.

PV:Dù được xem là nền tảng nâng tỷ lệ nội địa hóa và giá trị xuất khẩu, vì sao công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam vẫn phát triển chậm so với kỳ vọng, nguyên nhân do đâu thưa ông?

TS. Cấn Văn Lực: Công nghiệp hỗ trợ đúng là được xem là nền tảng để nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng trong xuất khẩu, song thực tế phát triển vẫn chậm so với kỳ vọng. Nguyên nhân trước hết đến từ việc tỷ lệ nội địa hóa của nhiều ngành sản xuất chiến lược còn thấp. Năm 2024, tỷ lệ nội địa hóa chung của Việt Nam mới đạt 36,6%, cao hơn một số nước như Myanmar hay Bangladesh, nhưng vẫn thấp hơn nhiều đối thủ cạnh tranh trực tiếp như Trung Quốc (67,1%),Thái Lan (58,4%) hay Ấn Độ (53,3%). Đặc biệt, các ngành then chốt như điện, điện tử chỉ đạt khoảng 27%, cơ khí chế tạo 25-30%, dệt may, da giày 45-55%... Trong khi đó, phần lớn nguyên phụ liệu và linh kiện vẫn phải nhập khẩu, chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, khiến sản phẩm trong nước thường chỉ dừng ở các chi tiết đơn giản, giá trị nhỏ trong cơ cấu sản phẩm.

Bên cạnh đó, hàm lượng giá trị gia tăng nội địa trong xuất khẩu của Việt Nam nhìn chung cũng ở mức thấp. Chẳng hạn, trong ngành điện, điện tử chiếm hơn 1/3 kim ngạch xuất khẩu giá trị gia tăng nội địa chỉ đạt 26,9%, thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực. Ngành dệt may, da giày cũng chỉ quanh mức 34-36%, trong khi các đối thủ thường đạt trên 60%. Điều này cho thấy dù xuất khẩu lớn, nhưng phần hưởng lợi của khu vực doanh nghiệp trong nước lại hạn chế, chưa tạo được động lực lan tỏa mạnh cho nền kinh tế.

Một nguyên nhân quan trọng khác là sự tham gia còn mờ nhạt của doanh nghiệp trong nước trong chuỗi giá trị toàn cầu. Hiện khu vực FDI vẫn nắm hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu và đóng vai trò chủ đạo trong các ngành chiến lược. Doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ tập trung vào những lĩnh vực có giá trị xuất khẩu thấp, dựa nhiều vào khai thác tài nguyên, chưa làm chủ được công nghệ cao. Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ có hàm lượng công nghệ cao gần như vẫn do khối FDI đảm nhiệm.

PV:Việt Nam đang hướng tới xây dựng một chính sách công nghiệp tổng thể cho giai đoạn 2026-2030. Theo ông, đâu là những định hướng cốt lõi để nâng cao năng lực sản xuất và phát triển công nghiệp hỗ trợ, nhằm tăng tỷ lệ nội địa hóa?

TS. Cấn Văn Lực: Theo tôi, chính sách công nghiệp tổng thể giai đoạn 2026-2030 cần đặt trọng tâm vào việc nâng cao năng lực sản xuất, phát triển công nghiệp hỗ trợ và tăng tỷ lệ nội địa hóa. Trước hết, phải đẩy nhanh hoàn thiện thể chế, chính sách, xây dựng nền công nghiệp xanh, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số và gia tăng giá trị. Điều này gắn với việc hiện đại hóa hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, triển khai năng lượng tái tạo, điện hạt nhân quy mô nhỏ, lưới truyền tải thông minh, đồng thời phát triển khu công nghiệp sinh thái và logistics xanh.

Song song, cần ưu tiên phát triển các cụm ngành chiến lược như bán dẫn, cơ khí chính xác, ô tô, xe điện, vật liệu xanh, chế biến nông sản công nghệ cao; đồng thời thúc đẩy chương trình “Make in Vietnam”, khuyến khích doanh nghiệp trong nước tiến lên thiết kế, chế tạo chứ không chỉ lắp ráp. Chính sách phải minh bạch, ưu đãi có điều kiện, gắn với cam kết tỷ lệ nội địa hóa, chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực.

Một định hướng quan trọng khác là điều chỉnh chiến lược thu hút FDI, chỉ chọn lọc dự án công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, thân thiện môi trường, có liên kết với doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó, cần hỗ trợ mạnh doanh nghiệp nhỏ và vừa về đào tạo, chứng nhận chất lượng để tham gia chuỗi cung ứng của tập đoàn FDI, qua đó hình thành mạng lưới cung ứng nội địa vững chắc.

Tầm nhìn xa hơn sau 2030, Việt Nam hướng tới nền công nghiệp phát thải thấp, số hóa sâu, trở thành trung tâm sản xuất, thiết kế công nghệ cao của khu vực. Đây sẽ là động lực quan trọng để nâng cao năng suất, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Xin cảm ơn ông!

Kim Tuyến

Đăng ngày: 28/08/2025 , 10:53 GMT+7

Tin liên quan

Tin Khác