Các doanh nghiệp đã đăng ký chương trình ưu đãi trước đó không cần đăng ký lại và vẫn được hưởng chính sách theo quy định mới.Việc gia hạn chương trình đến năm 2027 không chỉ đơn thuần là chính sách ưu đãi mà còn là cam kết mạnh mẽ từ Chính phủ trong việc đồng hành cùng doanh nghiệp, xây dựng nền công nghiệp ô tô hiện đại, tự chủ và bền vững.

Tỷ lệ nội địa hóa ngành công nghiệp ô tô đang ở mức thấp
Thời gian vừa qua, ngành công nghiệp ô tô nói chung và ngành CNHT (CNHT) ô tô nói riêng đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội của cả nước. CNHT ô tô phát triển sẽ thúc đẩy giảm nhập khẩu các loại linh kiện, phụ tùng, hạn chế nhập siêu, gia tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành ô tô. Bên cạnh đó, các ngành công nghiệp khác cũng có điều kiện phát triển như các ngành luyện kim, cao su, nhựa, hóa chất, điện - điện tử… tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế.
Việc kéo dài chương trình ưu đãi thuế CNHT ô tô của Chính phủ không chỉ đảm bảo tính nhất quán trong các chính sách ưu đãi mà còn tạo cơ hội cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam tiến gần hơn đến mục tiêu hiện đại hóa và hội nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu. Hiệu quả của chương trình ưu đãi thuế CNHT ô tô được thể hiện rõ qua nhiều số liệu ấn tượng. Các doanh nghiệp tham gia chương trình đã sản xuất hơn 3,3 triệu sản phẩm với tổng số thuế hoàn lên đến 116,8 tỉ đồng. Trung bình, mỗi năm số thuế được hoàn khoảng 39 tỉ đồng.
Theo số liệu thống kê của Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương),Việt Nam hiện có 377 doanh nghiệp sản xuất liên quan đến ô tô, trong đó có hơn 40 doanh nghiệp chuyên sản xuất và lắp ráp ô tô; 45 doanh nghiệp sản xuất khung gầm, thân xe và thùng xe; 214 doanh nghiệp sản xuất linh kiện và phụ tùng ô tô. Tính đến cuối năm 2024, có 38 doanh nghiệp đủ điều kiện sản xuất, lắp ráp ôtô theo quy định tại Nghị định số 116/2017. Số lượng các nhà sản xuất và nhà cung ứng trong nước cho ngành công nghiệp ô tô còn tương đối hạn chế. Tổng số sản phẩm của ngành hiện nay là 1.221 sản phẩm, chủ yếu là các sản phẩm CNHT với hàm lượng công nghệ trung bình và thấp. Những sản phẩm này chỉ đóng góp giá trị nhỏ trong cơ cấu giá thành của một chiếc ô tô.
Tỷ lệ nội địa hóa đối với dòng xe cá nhân (dưới 9 chỗ ngồi) hiện vẫn chưa đạt được các mục tiêu đề ra: năm 2020 đạt 30-40%, năm 2025 phấn đấu đạt 40-45%, năm 2030 kỳ vọng đạt 50-55%. Trên thực tế, tỷ lệ nội địa hóa của ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam vẫn rất khiêm tốn. Chẳng hạn, tại Công ty Thaco, tỷ lệ nội địa hóa đạt khoảng 15-18%; Toyota Việt Nam đạt khoảng 37% (đối với dòng xe Innova). Những con số này thấp hơn so với mục tiêu đề ra và thấp hơn so với các quốc gia trong khu vực.
Bên cạnh tỷ lệ nội địa hóa thấp, ngành công nghiệp ô tô trong nước còn gặp khó khăn với chi phí sản xuất và lắp ráp cao. Theo Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA),do lượng linh kiện sản xuất trong nước còn hạn chế, chi phí sản xuất và lắp ráp ô tô tại Việt Nam thường cao hơn 10-20% so với các nước trong khu vực. Điều này khiến giá bán ô tô lắp ráp trong nước bị đẩy cao hơn khoảng 20% so với các sản phẩm tương tự được nhập khẩu từ các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á.

Chương trình ưu đãi thuế CNHT ô tô kéo dài đến 31/12/2027
Ngành CNHT ô tô Việt Nam đang gặp phải nhiều trở ngại, từ quy mô thị trường nhỏ cho đến tỷ lệ nội địa hóa thấp. Với tình hình này, các doanh nghiệp trong nước cần có chiến lược phát triển chuỗi cung ứng và công nghệ tiên tiến hơn để gia tăng khả năng cạnh tranh, giảm phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu.
Để tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy ngành công nghiệp ô tô cũng như ngành CNHT ô tô nội địa phát triển bền vững, tự chủ, vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 21/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Điều 9 của Nghị định số 26/2023/NĐ-CP về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan. Nghị định 21/2025/NĐ-CP quy định thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi 0% đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được để sản xuất, gia công (lắp ráp) các sản phẩm hỗ trợ ưu tiên phát triển cho sản phẩm CNHT ô tô đến ngày 31 tháng 12 năm 2027.
Tại thời điểm đăng ký tờ khai hải quan, người khai hải quan thực hiện kê khai, tính thuế đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu theo mức thuế suất thuế nhập khẩu thông thường hoặc mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi hoặc mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo quy định, chưa áp dụng mức thuế suất 0%. Việc áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi 0% đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện của Chương trình ưu đãi thuế CNHT ô tô thực hiện theo quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4, khoản 5, khoản 6, khoản 7, khoản 8 Điều 9 Nghị định 26/2023/NĐ-CP. Kể từ ngày 10/02/2025, Nghị định 21/2025/NĐ-CP chính thức có hiệu lực thi hành. Doanh nghiệp đã đăng ký tham gia Chương trình ưu đãi thuế CNHT ô tô quy định trước thời điểm Nghị định này có hiệu lực thi hành không phải đăng ký lại Chương trình ưu đãi thuế CNHT ô tô và được hưởng ưu đãi theo quy định tại Nghị định này.
Theo Hiệp hội Cơ khí Việt Nam (VAMI),kể từ khi Chương trình ưu đãi thuế CNHT ô tô được ban hành, các doanh nghiệp thành viên đã ghi nhận những hiệu quả nhất định thông qua việc áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi 0% đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện sản xuất, lắp ráp sản phẩm CNHT. Theo VAMI, mức thuế nhập khẩu 0% đối với nguyên liệu, linh kiện phục vụ sản xuất CNHT đã giúp doanh nghiệp ổn định sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh và đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ hiện đại. Đây cũng chính là đòn bẩy giúp các doanh nghiệp yên tâm mở rộng quy mô, cải tiến thiết bị, đồng thời từng bước tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu của ngành công nghiệp ô tô.
Từ năm 2020 đến nay, Bộ Công Thương đã cấp Giấy xác nhận ưu đãi khoảng 40 dự án sản xuất sản phẩm CNHT cho ngành sản xuất, lắp ráp ô tô. Chính sách ưu đãi thuế CNHT ô tô vừa qua (tính đến hết ngày 31/12/2024) là đòn bẩy quan trọng giúp doanh nghiệp yên tâm mở rộng quy mô, cải tiến thiết bị, đồng thời từng bước tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu của ngành công nghiệp ô tô. Những hiệu quả mà chương trình mang lại sẽ tạo động lực để ngành công nghiệp ô tô Việt Nam khẳng định vị thế không chỉ trong nước mà còn trên bản đồ công nghiệp ô tô toàn cầu./.
Đào Hoàn













