Công nghiệp hỗ trợ tỷ lệ nội địa hóa chưa cao
Sau nhiều năm triển khai chính sách, công nghiệp ngành ô tô ở Việt Nam đã có bước tiến, nhưng vẫn chưa đáp ứng kỳ vọng. Theo Bộ Công Thương, cả nước có hơn 377 doanh nghiệp sản xuất liên quan đến ô tô, trong đó 169 doanh nghiệp FDI (chiếm 46,4%),hơn 40 doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp; 45 doanh nghiệp sản xuất khung gầm, thân xe, thùng xe; 214 doanh nghiệp linh kiện, phụ tùng. Một số thương hiệu lớn như THACO, VinFast, Thành Công đã xây dựng hệ sinh thái CNHT, từng bước giảm phụ thuộc nhập khẩu.

Ngành ô tô Việt bước vào giai đoạn mới, mở dư địa lớn cho công nghiệp hỗ trợ
Tuy vậy, phần lớn linh kiện vẫn nhập từ Thái Lan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và châu Âu. Tỷ lệ nội địa hóa xe dưới 9 chỗ chỉ đạt 10-15%, trong khi mục tiêu 2020 là 40%. So với Thái Lan, Indonesia (60- 80%),Việt Nam vẫn ở giai đoạn đầu.
Nguyên nhân chính là chính sách công nghiệp thiếu đồng bộ, chưa ổn định lâu dài. Năng lực tài chính, công nghệ của nhiều doanh nghiệp nội địa còn yếu, máy móc lạc hậu, nhân lực chất lượng cao còn thiếu. Thị trường trong nước nhỏ, sản lượng linh kiện chưa đạt quy mô kinh tế. Liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và FDI lỏng lẻo, số doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn tham gia chuỗi cung ứng quốc tế rất hạn chế.
Để khắc phục hạn chế trên, một số địa phương đã chủ động ban hành chính sách, hình thành hạ tầng công nghiệp hỗ trợ. Đơn cử như tỉnh Quảng Nam (cũ) này là TP. Đà Nẵng xem Khu kinh tế mở Chu Lai là trung tâm trọng điểm, tập trung phát triển cụm liên kết ngành công nghiệp hỗ trợ và cơ khí với vai trò dẫn dắt của THACO Industries. Tỉnh ban hành nhiều chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, logistics, đồng thời chú trọng hạ tầng đồng bộ cảng biển, sân bay, đường sắt, tạo thuận lợi cho sản xuất và xuất khẩu.
Nói về phát triển công nghiệp hỗ trợ ô tô, ông Trần Bá Dương, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Tập đoàn Trường Hải (THACO) chỉ ra, xu thế chuyển đổi sang ô tô năng lượng sạch phù hợp cam kết COP26. THACO đang xây dựng trung tâm sản xuất cho các hãng quốc tế, hướng đến xuất khẩu sang ASEAN. Riêng đối công nghiệp hỗ trợ, năm 2024, THACO xuất khẩu gần 140 triệu USD sản phẩm cơ khí, trong đó có 20 triệu USD đơn hàng từ FDI. THACO đang phát triển Khu công nghiệp cơ khí hỗ trợ ở miền Nam, với khả năng cung ứng 35- 40% linh kiện cho đối tác quốc tế.
Đối với VinFast đang phấn đấu đạt sản lượng 80.000 xe/năm, sẵn sàng bao tiêu linh kiện nếu doanh nghiệp nội địa tham gia sản xuất, tạo nền công nghiệp hỗ trợ vững mạnh.
TS Trương Thị Chí Bình, Tổng thư ký Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI) cũng nhìn nhận, có tín hiệu đáng mừng là tỷ lệ tổng giá trị sản phẩm công nghiệp ô tô đã tăng nhanh trong những năm gần đây. Cụ thể là từ 12% vào năm 2018 đã lên 25% vào năm 2023. Đồng thời, xu thế của các doanh nghiệp là gia tăng giá trị sản phẩm. Thay vì tập trung vào linh kiện phụ tùng riêng lẻ, doanh nghiệp đã tập trung sản xuất cụm linh kiện, bắt đầu sản xuất thiết bị gốc (OEM) và hướng tới sản xuất thương hiệu gốc (OBM).
Như vậy, có thể khẳng định, ngành công nghiệp ô tô cũng như công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam đang còn nhiều dư địa phát triển.
“Trợ lực” từ chính sách
Theo dự thảo về "Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045", Bộ Công Thương xác định nội dung chiến lược là phát huy nội lực của mọi thành phần kinh tế trong nước; chú trọng liên kết, hợp tác với các tập đoàn sản xuất ô tô lớn trên thế giới để phát triển ngành công nghiệp ô tô đồng bộ với phát triển hạ tầng giao thông.
Về công nghiệp hỗ trợ, sẽ tiếp cận và ứng dụng công nghệ để chế tạo được các chi tiết, linh kiện quan trọng như bộ truyền động, hộp số, động cơ, thân vỏ xe... cho một vài chủng loại xe; tăng cường hợp tác với các hãng ô tô lớn, lựa chọn chủng loại phụ tùng, linh kiện mà Việt Nam có thể sản xuất để đảm nhận vai trò mắt xích trong chuỗi sản xuất - cung ứng toàn cầu. Trên cơ sở đó, đầu tư công nghệ tiên tiến, sản xuất phục vụ xuất khẩu.
Liên quan đến chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ, Chính phủ mới ban hành Nghị định 21/2025/NĐ-CP (10/02/2025),kéo dài chương trình ưu đãi thuế công nghiệp hỗ trợ ô tô đến 31/12/2027. Theo đó, nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được sẽ được áp thuế nhập khẩu ưu đãi 0%, thay vì hết hạn năm 2024. Đây là tín hiệu quan trọng, đảm bảo tính nhất quán của chính sách, giúp doanh nghiệp ổn định sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Hiệp hội Doanh nghiệp Cơ khí Việt Nam (VAMI) đánh giá việc kéo dài ưu đãi không chỉ giúp giảm chi phí, mà còn thể hiện cam kết mạnh mẽ của Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp, thúc đẩy ngành ô tô hiện đại, tự chủ, hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Bên cạnh đó, nhận định rõ những điểm yếu nội tại và bất cập về chính sách, ngày 17/7/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 205/2025/NĐ-CP, sửa đổi và bổ sung Nghị định số 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ và có hiệu lực từ ngày 1/9/2025, Nghị định mang đến nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ mạnh mẽ hơn về công nghệ, nhân lực, tài chính, đất đai, thủ tục hành chính... Từ đó, tạo kỳ vọng sẽ thu hút đầu tư mạnh hơn vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, nhất là trong bối cảnh các doanh nghiệp đang tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu và chuyển hướng sang sản xuất trong nước.
Theo các chuyên gia, khi được triển khai bài bản và minh bạch, Nghị định số 205/2025/NĐ-CP sẽ đóng vai trò "đòn bẩy" thúc đẩy cả hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả và hội nhập. Đây là điều kiện tiên quyết để Việt Nam tránh lệ thuộc vào nhập khẩu linh kiện, nguyên vật liệu, đồng thời tăng khả năng tham gia vào mạng lưới sản xuất khu vực, tận dụng làn sóng dịch chuyển đầu tư quốc tế.
Kim Tuyến